Tàu khu trục USS Laffey (DD-724) vào năm 1964
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Laffey (DD-724) |
Đặt tên theo | Bartlett Laffey |
Xưởng đóng tàu | Bath Iron Works |
Đặt lườn | 28 tháng 6 năm 1943 |
Hạ thủy | 21 tháng 11 năm 1943 |
Người đỡ đầu | cô Beatrice F. Laffey |
Nhập biên chế | 8 tháng 2 năm 1944 |
Tái biên chế | 26 tháng 1 năm 1951 |
Xuất biên chế |
|
Xóa đăng bạ | 9 tháng 3 năm 1975[1] |
Danh hiệu và phong tặng | 1 × Ngôi sao Chiến trận |
Tình trạng | Tàu bảo tàng tại Patriots Point, Mount Pleasant, South Carolina |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục Allen M. Sumner |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 40 ft (12 m) |
Mớn nước |
|
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | 34 kn (39 mph; 63 km/h) |
Tầm xa | 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 15 kn (17 mph; 28 km/h) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 336 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|
USS Laffey | |
Laffey vào năm 2007 | |
Thành phố gần nhất | Mount Pleasant, South Carolina |
Tọa độ | 32°47′23″B 79°54′28″T / 32,78972°B 79,90778°T |
Xây/Thành lập | 1943 |
Kiến trúc sư | Bath Iron Works |
Số NRHP # | 83002189 |
Những ngày quan trọng | |
Đưa vào NRHP | 12 tháng 4, 1983[2] |
Công nhận NHL | 14 tháng 1, 1986 |
USS Laffey (DD-724) là một tàu khu trục lớp Allen M. Sumner được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Bartlett Laffey (1841-1901), một thủy thủ từng được trao tặng Huân chương Danh dự do chiến đấu dũng cảm trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.[3] Nó đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, từng tham gia cuộc Đổ bộ Normandy và sống sót qua một loạt các đợt tấn công tự sát Kamikaze ngoài khơi Okinawa. Con tàu tiếp tục phục vụ sau đó trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Lạnh cho đến khi ngừng hoạt động năm 1975. Con tàu được giữ lại như một tàu bảo tàng tại Patriots Point, Mount Pleasant, gần Charleston, South Carolina,[4] và được công nhận là một Di tích Lịch sử Quốc gia vào năm 1986.[5] Laffey được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống và năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Hàn Quốc cùng hai Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động trong Chiến tranh Triều Tiên.